Lịch sử Cộng_hòa_Liên_bang_Xã_hội_chủ_nghĩa_Nam_Tư

Thế chiến II

Ngày 6 tháng 4 năm 1941, Nam Tư bị khối Trục xâm lược, dẫn đầu là Đức Quốc xã; ngày 17 tháng 4 năm 1941, quốc gia này đã hoàn toàn bị chiếm đóng. Người Nam Tư ngay sau đó đã tiến hành kháng chiến dưới ngọn cờ của hai tổ chức, Quân đội Nam Tư tại Tổ quốc theo tư tưởng bảo hoàng[1] và Quân đội Giải phóng Nhân dân và các Biệt đội du kích Nam Tư. Chỉ huy tối cao của quân du kích là Josip Broz Tito, và dưới quyền chỉ huy của ông, phong trào đã sớm bắt đầu lập ra các" lãnh thổ được giải phóng", thu hút sự chú ý từ lực lượng chiếm đóng.

Không giống như các lực lượng dân quân dân tộc chủ nghĩa khác tại Nam Tư, lực lượng du kích là một phong trào theo tư tưởng liên Nam Tư, thúc đẩy "tình huynh đệ và thống nhất" giữa các dân tộc Nam Tư, và đại diện cho các yếu tố cộng hòa, cánh tả, và nhân tố xã hội chủ nghĩa trong nền chính trị Nam Tư. Liên minh gồm các chính đảng, phe nhóm, và cá nhân nổi bật, đứng đằng sau phong trào là Mặt trận Giải phóng Nhân dân (Jedinstveni narodnooslobodilački front, JNOF), do Đảng Cộng sản Nam Tư (KPJ) lãnh đạo.

Mặt trận hình thành một thực thể chính trị đại diện, [[Hội đồng chống phát xít của Giải phóng Nhân dân Nam Tư]] (AVNOJ, Antifašističko Vijeće Narodnog Oslobođenja Jugoslavije).[2] AVNOJ tổ chức hội nghị ban đầu ở vùng giải phóng Bihać vào ngày 26 tháng 11 năm 1942, và đã tuyên bố mình là Hội đồng Thảo luận của Nam Tư (tức quốc hội).[2][3][4]

Năm 1943, Du kích Nam Tư bắt đầu bị người Đức xem là một mối đe dọa lớn. Trong hai chiến dịch chính Fall Weiss (tháng 1 đến tháng 4 năm 1943) và Fall Schwartz (15 tháng 5 đến 16 tháng 6 năm 1943), khối Trục đã cố gắng để dập tắt cuộc kháng chiến của Nam Tư. Trong các trận chiến, được gọi tương ứng là trận Neretvatrận Sutjeska, 20.000 lính Du kích đã phải chiến đấu với một lực lượng gồm 150.000 quân của khối Trục.[2] Trong cả hai sự kiện, mặc dù bị thương vong nặng nề, chỉ huy quân Du kích Josip Broz Tito đã rút lui đến nơi an toàn.

Sau khi lực lượng chính của khối Trục rút lui, quân Du kích nổi lên và thậm chí còn mạnh hơn trước đó và họ chiếm được một phần lãnh thổ đáng kể của Nam Tư. Các sự kiện này đã nâng cao rất lớn vị thế của quân Du kích, và họ có được danh tiếng đối với người dân Nam Tư – khiến số người gia nhập tăng lên. Ngày 8 tháng 9 năm 1943, phát xít Ý đã đầu hàng lực lượng Đồng Minh, để khu vực chiếm đóng của họ tại Nam Tư cho quân Du kích. Tito đã tận dụng các sự kiện này để giải phóng vùng bờ biển Dalmatia và các thành phố tại đó. Do vậy, quân Du kích đã thu được các vũ khí, vật tư của Ý cùng các tình nguyện viên đến từ các thành phố trước đây bị sáp nhập vào Ý, và các tân binh Ý thông qua trao đổi với Đồng Minh.[3][4]

Sau chuỗi sự kiện rất thuận lợi đó, AVNOJ đã quyết định tụ họp lần thứ hai – lần này là ở vùng giải phóng Jajce. Kỳ họp thứ hai của AVNOJ kéo dài từ ngày 21 đến 29 tháng 11 năm 1943 (ngay trước và trong Hội nghị Tehran), và đi đến một số kết luận quan trọng. Quan trọng nhất trong số này là việc thành lập Liên bang Dân chủ Nam Tư, nhà nước này là một liên bang gồm sáu nước cộng hòa Nam Slav bình đẳng (trái ngược với tình trạng người Serb chiếm ưu thế tại Nam Tư thời tiền chiến). Hội nghị đã quyết định lấy một cái tên trung lập và cố ý để lại câu hỏi mở về nền quân chủ và cộng hòa, quyết định rằng Petar II sẽ chỉ được cho phép trở về từ nơi đang lưu vong (Luân Đôn) nếu có một kết quả thuận lợi cho ông ta trong cuộc trưng cầu dân ý liên Nam Tư về câu hỏi mở.[4]

Trong các vấn đề khác, AVNOJ đã quyết định thành lập một cơ quan quản trị lâm thời, Ủy ban Quốc gia về Giải phóng Nam Tư (NKOJ, Nacionalni komitet oslobođenja Jugoslavije), bổ nhiệm Josip Broz Tito làm Thủ tướng. Sau khi có được thành công trong cuộc họp năm 1943, Tito cũng được thăng hàm Nguyên soái Nam Tư. Các tin tức thuận lợi cũng đến từ Hội nghị Tehran, lực lượng Đồng Minh kết luận rằng Du kích Nam Tư sẽ được công nhận là phong trào kháng chiến Nam Tư của Đồng Minh và được cung cấp vật tư và hỗ trợ chiến đấu chống lại sự chiếm đóng của khối Trục.[4]

Khi tình thế quay sang bất lợi cho phe Trục vào năm 1944, quân Du kích Nam Tư tiếp tục chiếm giữ được những phần quan trọng của lãnh thổ Nam Tư. Với việc quân Đồng Minh đóng ở Ý, các hòn đảo của Nam Tư trên biển Adriatic trở thành một nơi lý tưởng để tiến hành kháng chiến. Ngày 17 tháng 6 năm 1944, căn cứ của quân Du kích trên đảo Vis đã diễn ra cuộc họp giữa Josip Broz Tito, Thủ tướng của NKOJ (đại diện cho AVNOJ), và Ivan Šubašić, Thủ tướng của chính phủ Nam Tư bảo hoàng lưu vong tại Luân Đôn.[5] Các kết luận, được gọi là Hiệp ước Tito-Šubašić, đã trao sự công nhận của nhà vua cho AVNOJ và Liên bang Dân chủ Nam Tư (DFY) và quy định việc thành lập một chính phủ liên minh Nam Tư do Tito đứng đầu và Šubašić là ngoại trưởng, AVNOJ được công nhận là quốc hội Nam Tư lâm thời.[4] Chính phủ lưu vong tại Luân Đôn của vua Petar II, một phần do áp lực từ Anh Quốc,[6] đã công nhận thỏa thuận.[6]

Cơ quan lập pháp của Liên bang Dân chủ Nam Tư, sau tháng 11 năm 1944, là Hội nghị Lâm thời.[7] Hiệp ước Tito-Šubašić năm 1944 đã tuyên bố rằng nhà nước liên bang này là một nền dân chủ đa nguyên và bảo đảm các quyền dân chủ tự do, tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do tôn giáotự do báo chí.[8] Tuy nhiên đến tháng 1 năm 1945, Tito đã thay đổi trọng tâm trong chính phủ của ông từ chỗ nhấn mạnh về dân chủ đa nguyên, sang tuyên bố rằng mặt dù ông chấp thuận dân chủ, song không có "nhu cầu" về đa đảng, ông cho rằng đa đảng gây chia rẽ không cần thiết cho các nỗ lực chiến đấu của Nam Tư và rằng Mặt trận Nhân dân đại diện cho tất cả người dân Nam Tư.[8] Liên minh Mặt trận Nhân dân, đứng đầu là Đảng Cộng sản Nam Tư và tổng thư ký là Nguyên soái Josip Broz Tito, là một phong trào lớn trong chính phủ. Các phong trào chính trị khác tham gia vào chính phủ còn bao gồm phong trào "Napred" do Milivoje Marković đại diện.[7]

Beograd, thủ đô của Nam Tư, đã được giải phóng cùng với sự giúp đỡ của Hồng quân Liên Xô vào tháng 10 năm 1944, và việc thành lập một chính phủ mới của Nam Tư đã bị trì hoãn cho đến ngày 2 tháng 11 năm 1944, khi ký kết Hiệp định Beograd và thành lập chính phủ lâm thời. Các hiệp định cũng quy định rằng các cuộc bầu cử sau chiến tranh sẽ xác định hệ thống nhà nước trong tương lai trên mặt chính quyền và kinh tế.[4]

Năm 1945, quân Du kích Nam Tư đã truy quét lực lượng khối Trục và giải phóng các phần lãnh thổ bị chiếm đóng còn lại. Ngày 20 tháng 3 năm 1945, quân Du kích đã phát động cuộc Tổng công kích nhằm đánh đuổi hoàn toàn người Đức và các lực lượng phối hợp còn lại của họ.[2] Vào cuối tháng 4 năm 1945, các khu vực còn lại ở miền bắc Nam Tư đã được giải phóng, quân Nam Tư cũng giải phóng một số bộ phận ở miền nam lãnh thổ Đức (nay là Áo), và lãnh thổ Ý xung quanh Trieste.

Sau đó, Nam Tư lại một lần nữa có được tình trạng toàn vẹn, và được quân Du kích mường tượng sẽ là "Liên bang Dân chủ", bao gồm sáu nước cộng hòa liên bang: Cộng hòa Liên bang Bosna và Hercegovina, Cộng hòa Liên bang Croatia, Cộng hòa Liên bang Macedonia, Cộng hòa Liên bang Montenegro, Cộng hòa Liên bang Serbia, và Cộng hòa Liên bang Slovenia.[4][9] Tuy nhiên, bản chất của chính phủ này vẫn chưa rõ ràng, và Tito đã rất miễn cưỡng để đưa Quốc vương Petar II đang lưu vong vào thành phần chính quyền Nam Tư sau chiến tranh theo yêu cầu của Winston Churchill. Tháng 2 năm 1945, Tito thừa nhận sự tồn tại của một hội đồng nhiếp chính đại diện cho Nhà vua: tuy nhiên hành động đầu tiên và duy nhất của hội đồng là ra tuyên bố vào ngày 7 tháng 3 về việc hình thành chính phủ mới do Tito làm thủ tướng.[10] Bản chất của nhà nước vẫn chưa rõ ràng kể cả sau khi chiến tranh kết thúc, và ngày 26 tháng 6 năm 1945, quốc gia này đã ký vào Hiến chương Liên Hiệp Quốc chỉ với tên Nam Tư, không nhắc đến một vương quốc hay nước cộng hòa.[11][12]

Thời kỳ hậu chiến

Cuộc bầu cử đầu tiên tại Nam Tư sau chiến tranh được tổ chức vào ngày 11 tháng 11 năm 1945. Thời gian này, liên minh các bên ủng hộ quân Du kích, Mặt trận Giải phóng Nhân dân đã đổi tên thành Mặt trận Nhân dân. Mặt trận Nhân dân chủ yếu do Đảng Cộng sản Nam Tư lãnh đạo, đại diện là Josip Broz Tito. Danh tiếng của cả hai có được phần lớn là nhờ các hành động của họ trong thời chiến, và họ nhận được sự ủng hộ của người dân. Tuy nhiên, các chính đảng từ thời tiền chiến cũng được tái lập.[9]

Josip Broz Tito, người lãnh đạo Nam Tư từ năm 1944 đến 1980

Tuy nhiên, mặc dù bản thân cuộc bầu cử được cho là sẽ tiến hành một cách công bằng theo hình thức bỏ phiếu kín, chiến dịch tranh cử trước đó dược đánh giá có nhiều dấu hiệu bất thường.[4] Các tờ báo đối lập đã bị cấm nhiều hơn một lần, và tại Serbia các lãnh đạo đối lập như Milan Grol nhận được những lời hăm dọa thông qua báo chí. Phe đối lập đã rút lui khỏi cuộc bầu cử để phản đối không khí thù địch và tình thế này khiến ba đại diện bảo hoàng, Grol-Subasic-Juraj Sutej, rút ra khỏi chính phủ lâm thời.[13][14] Kết quả bầu cử được công bố vào ngày 11 tháng 11 năm 1945, với trung bình 85% số cử tri đi bầu ủng hộ cho Mặt trận Nhân dân.[4] Cuộc bầu cử này đánh dấu sự khởi đầu của chế độ Cộng sản công khai tại Nam Tư.

Ngày 29 tháng 11 năm 1945, tại lễ kỉ niệm năm thứ hai của Kỳ họp AVNOJ thứ hai, Quốc hội lập hiến của Nam Tư đã chính thức bãi bỏ chế độ quân chủ và tuyên bố nhà nước là một cộng hòa. Tên gọi chính thức trở thành Cộng hòa Liên bang Nhân dân Nam Tư, và sáu "nhà nước liên bang" trở thành "các cộng hòa nhân dân"[9][15] Nam Tư trở thành một nhà nước độc đảng và trong những năm đầu tiên nó được xem là tuân theo mô hình cộng sản chính thống.[16]

Chính phủ Nam Tư là đồng minh với Liên Xô và trong thời gian đầu của Chiến tranh Lạnh, họ đã bắn rơi hai máy bay của Hoa Kỳ bay trên không phận Nam Tư vào ngày 9 và 19 tháng 8 năm 1946. Đây là những vụ bắn rơi máy bay phương Tây đầu tiên trong Chiến tranh Lạnh và khiến Hoa Kỳ càng ngờ vực sâu hơn Tito và thậm chí còn kêu gọi can thiệp quân sự chống lại Nam Tư.[17] Nước Nam Tư mới cũng phát triển kinh tế theo mô hình Stalin-Xô viết trong thời kỳ này, và nó đã đạt được thành công đáng kể trên một số khía cạnh. Đặc biệt là các công trình công cộng đã được chính phủ xây dựng lại và thậm chí còn cải thiện cơ sở hạ tầng của Nam Tư (đặc biệt là hệ thống đường bộ). Căng thẳng với phương Tây lên cao khi Nam Tư gia nhập Cominform, và trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Lạnh, Nam Tư đã theo đuổi một chính sách đối ngoại hung hăng.[4] Do quân Du kích Nam Tư đã giải phóng Venezia GiuliaKärnten, và cùng với các tuyên bố chủ quyền trong lịch sử, chính phủ Nam Tư bắt đầu vận động ngoại giao để hợp nhất chúng vào Nam Tư. Cả hai yêu cầu này đều bị phương Tây phản đối. Điểm tranh cãi lớn nhất là thành phố cảng Trieste. Du kích Nam Tư là lực lượng chủ yếu đã giải phóng thành phố này và các vùng nội địa xung quanh vào năm 1945, song trước sức áp từ lực lượng Đồng Minh phương Tây, họ đã buộc phải rút lui về cái gọi là "đường Morgan". Lãnh thổ Tự do Trieste được thành lập, và bị tách thành khu vực A và khu vực B, được quản lý tương ứng bởi Đồng Minh phương Tây và Nam Tư. Ban đầu, Nam Tư nhận được sự hậu thuẫn của Stalin, song từ năm 1947 trở về sau nhà lãnh đạo Xô viết dần lạnh nhạt với tham vọng của Nam Tư. Cuộc khủng hoảng được giải quyết khi Tito–Stalin bắt đầu chia rẽ, khu vực A được trao cho Ý, còn khu vực B trao cho Nam Tư.[4][9]

Trong khi đó, nội chiến đã nổ ra ở Hy Lạp – nước láng giềng phía nam của Nam Tư, chính phủ Nam Tư đã quyết định mang về một chiến thắng cho cộng sản.[4][9] Nam Tư đã trợ giúp đắc lực về vũ khí đạn dược, vật tư, chuyên gia quân sự, và thậm chí còn cho phép quân Du kích Hy Lạp sử dụng lãnh thổ Nam Tư để trú ẩn. Mặc dù Liên Xô, Bulgaria, và Albania cũng cung cấp hỗ trợ quân sự, song hỗ trợ của Nam Tư là vượt trội. Tuy nhiên, cuộc phiêu lưu này của Nam Tư cũng kết thúc với sự chia rẽ Tito–Stalin, do quân cộng sản Hy Lạp mong đợi việc Tito bị lật đổ nên đã từ chối bất kỳ sự trợ giúp nào từ chính phủ Nam Tư. Tuy nhiên, do không có chúng, quân cộng sản Hy Lạp đã gặp phải rất nhiều khó khăn và bị đánh bại vào năm 1949.[9]

Nước láng giềng cộng sản duy nhất của Cộng hòa Nhân dân Albania là Nam Tư, và ngay sau chiến tranh nước này đã trở thành một quốc gia vệ tinh của Nam Tư. Nước láng giềng Bulgaria cũng chịu ảnh hưởng tăng dần của Nam Tư. Điểm chính của cuộc tranh giành ảnh hưởng này là Nam Tư muốn sáp nhập hai nước trên thành hai nước cộng hòa liên bang. Albania không có lập trường chống lại, song Bulgaria có quan điểm là muốn Bulgaria và Nam Tư thống nhất một cách bình đẳng trong liên bang mới. Khi các cuộc đàm phán bắt đầu, các đại diện của Nam Tư là Edvard KardeljMilovan Đilas được triệu đến Moskva cùng với một phái đoàn của Bulgaria, tại đây Stalin và Vyacheslav Molotov đã cố gắng hăm dọa rằng họ sẽ phải chấp thuận sự kiểm soát của Liên Xô trong việc hợp nhất giữa các quốc gia, và nói chung cố gắng buộc họ phải chịu lệ thuộc.[9] Liên Xô đã không thể hiện một quan điểm cụ thể về vấn đề thống nhất Nam Tư-Bulgaria, song muốn đảm bảo hai bên trước tiên phải chấp thuận mọi quyết định của Moskva. Người Bulgaria đã không phản đối, song phái đoàn Nam Tư đã rút khỏi cuộc họp Moskva. Nhận thức được mức độ lệ thuộc của Bulgaria vào Moskva, Nam Tư đã rút khỏi các cuộc đàm phán thống nhất, và hoãn lại kế hoạch hợp nhất Albania để đề phòng việc lâm vào tình thế đối đầu với Liên Xô.[9]

Thời kỳ Informbiro

Chia rẽ Tito–Stalin, hoặc chia rẽ Nam Tư-Liên Xô đã xảy ra vào mùa xuân và đầu mùa hè năm 1948. Tên gọi của nó gắn liền với Josip Broz Tito, lúc đó đang là Thủ tướng Nam Tư (Chủ tịch Quốc hội Liên bang), và nhà lãnh đạo Liên Xô Joseph Stalin. Tại phương Tây, Tito được xem là một nhà lãnh đạo cộng sản trung kiên, chỉ đứng thứ hai sau Stalin tại khối phía đông. Tuy nhiên, Nam Tư phần lớn đã tự giải phóng được chính mình và sự trợ giúp của Hồng quân chỉ ở mức giới hạn,[2] Nam Tư đi theo một chiều hướng độc lập, và liên tục có căng thẳng với Liên Xô. Nam Tư và chính phủ của nó tự xem mình là đồng minh của Moskva, trong khi Moskva xem Nam Tư là một quốc gia vệ tinh và thường xuyên đối xử với Nam Tư theo hướng này. Trước đó, hai bên đã có căng thẳng trên một số vấn đề, song từ sau cuộc họp Moskva, một cuộc đối đầu mở đã bắt đầu.[9]

Tiếp đến là việc trao đổi thư tín trực tiếp giữa Đảng Cộng sản Liên XôĐảng Cộng sản Nam Tư. Đầu tiên, trong lá thư của ĐCS Liên Xô ngày 27 tháng 3 năm 1948, Liên Xô đã cáo buộc Nam Tư bôi nhọ nhà nước Xô viết thông qua các tuyên bố như "chủ nghĩa xã hội tại Liên Xô đã không còn là cách mạng". Liên Xô cũng tuyên bố rằng Đảng Cộng sản Nam Tư không "đủ dân chủ", và rằng nó không hành động như một đội quân tiên phong đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Liên Xô nói rằng họ [ĐCS Nam Tư] "không thể được xem như là một tổ chức đảng Cộng sản Marx-Lenin, Bolshevik". Bức thư cũng viết tên của một số quan chức cấp cao được Liên Xô xem là "Marxist mơ hồ" (Milovan Đilas, Aleksandar Ranković, Boris Kidrič, và Svetozar Vukmanović-Tempo) và yêu cầu Tito thanh trừng họ. Các quan chức cộng sản như Andrija HebrangSreten Žujović ủng hộ quan điểm của Liên Xô.[4][9] Tuy nhiên, khi Tito nhìn thấy bức thư, ông đã từ chối làm tổn hại đảng của mình, và sớm tự mình trả lời thư. Bức thư hồi đáp của Đảng Cộng sản Nam Tư vào ngày 13 tháng 4 năm 1948 đã phủ nhận mạnh mẽ các cáo buộc của Liên Xô, bảo vệ bản chất cách mạng của đảng.[9]

Trong một bức thư trả lời dài 31 trang vào ngày 4 tháng 5 năm 1948, Liên Xô đã nhắc nhở Đảng Cộng sản Nam Tư về các khuyết điểm phạm phải và cần phải sửa chữa sai lầm của mình, và buộc tội ĐCS Nam Tư đã quá kiêu ngạo về thành công chống lại người Đức, duy trì quan điểm rằng Hồng quân "đã cứu họ khỏi bị hủy diệt" (một tuyên bố không hợp lý, do các du kích của Tito đã thành công trong các chiến dịch chống lại phe Trục bốn năm trước khi Hồng quân xuất hiện tại đó).[2][9] Lần này, Xô viết nêu tên Josip Broz Tito và Edvard Kardelj là những kẻ "dị đoan" chính, trong khi bảo vệ Hebrang và Žujović. Đảng Cộng sản Nam Tư đáp trả bằng cách trục xuất Hebrang và Žujović ra khỏi đảng, và trả lời Liên Xô trong lá thư ngày 17 tháng 5 năm 1948 với những lời chỉ trích mạnh mẽ các nỗ lực của Liên Xô nhằm làm suy giảm ý nghĩa của phong trào kháng chiến Nam Tư.[9]

Ngày 19 tháng 5 năm 1948, một bức thư của Mikhail A. Suslov đã thông báo với Josip Broz Tito rằng Cục Thông tin Cộng sản, hay Cominform (Informbiro trong tiếng Serbia-Croatia), sẽ tổ chức một phiên họp vào ngày 28 tháng 6 năm 1948 tại Bucharest để giành gần như hoàn toàn cho "vấn đề Nam Tư". Cominform là một hiệp hội của các đảng cộng sản, là công cụ chính của Liên Xô để kiểm soát sự phát triển chính trị trong khối phía đông. Ngày tổ chức họp, 28 tháng 6, đã được Liên Xô lựa chọn cẩn thận vì đây là ngày kỉ niệm ba sự kiện gồm trận Kosovo (1389), the ám sát thái tử Ferdinand tại Sarajevo (1914), và việc thông qua Hiến pháp Vidovdan (1921).[9]

Mặc dù được mời đích danh, Tito đã từ chối tham dự buổi họp vì một lý do không rõ ràng là bị ốm. Khi một lời mời chính thức đến vào ngày 19 tháng 6 năm 1948, Tito lại từ chối. Vào ngày đầu tiên của cuộc họp, 28 tháng 6, Cominform đã thông qua dự thảo về một nghị quyết, được gọi tại Nam Tư là "Nghị quyết của Informbiro" (Rezolucija Informbiroa). Trong đó, các thành viên Cominform khác quyết định khai trừ Nam Tư, với lý do "các yếu tố dân tộc chủ nghĩa" đã "chế ngự hướng đi trong năm hoặc sáu tháng qua để tiến đến một vị trí thống trị trong hàng ngũ lãnh đạo" của Đảng Cộng sản Nam Tư. Nghị quyết cảnh báo Nam Tư rằng nó đang đi ngược trên con đường quay trở lại chủ nghĩa tư bản vì tính dân tộc chủ nghĩa, các ý định độc lập của mình và cáo buộc chính đảng này theo "chủ nghĩa Trotsky".[9] Tiếp theo đó là sự kiện cắt đứt quan hệ giữa Nam Tư và Liên Xô, bắt đầu thời kỳ xung đột Liên Xô-Nam Tư từ năm 1948 đến 1955, được gọi là thời kỳ Informbiro.[9]

Sau khi cắt đứt quan hệ với Liên Xô, Nam Tư tự nhận thấy mình bị cô lập về kinh tế và chính trị và nền kinh tế quả thực đã bị ảnh hưởng. Lúc đó, những người Nam Tư theo chủ nghĩa Stalin bắt đầu kích động tình trạng bất ổn trong dân chúng và quân đội. Một số cuộc nổi loạn và binh biến đã xảy ra, cùng với các hành động phá hoại. Tuy nhiên, an ninh Nam Tư do Aleksandar Ranković lãnh đạo mang tên UDBA đã nhanh chóng đàn áp hiệu quả các hoạt động nổi dậy. Nam Tư cũng đối mặt với nguy cơ bị xâm lược khi các đơn vị quân đội Liên Xô diễu hành dọc biên giới Nam Tư-Cộng hòa Nhân dân Hungaria, trong khi Quân đội Nhân dân Hungaria nhanh chóng tăng cường quy mô từ 2 lên 15 sư đoàn. UDBA bắt đầu bắt giữ những người bị cáo buộc là theo chủ nghĩa Stalin hoặc thậm chí là thân Liên Xô.

Tuy nhiên, ngay từ lúc bắt đầu khủng hoảng, Tito đã bắt đầu đưa ra các lời đề nghị với Hoa Kỳ và phương Tây. Do đó, các kế hoạch của Stalin đã bị cản trở khi Nam Tư bắt đầu thay đổi các liên kết của mình. Hoan nghênh rạn nứt Nam Tư-Liên Xô, phương Tây đã bắt đầu viện trợ kinh tế tới tấp cho Nam Tư vào năm 1949, góp phần ngăn ngừa nạn đói năm 1950, và bù đắp phần lớn thâm hụt thương mại của Nam Tư trong thập niên sau đó. Hoa Kỳ bắt đầu vận chuyển vũ khí đến Nam Tư vào năm 1951. Tuy nhiên, Tito cũng cảnh giác để không quá phụ thuộc vào phương Tây, các thảo thuận an ninh quân sự kết thúc vào năm 1953 và Nam Tư từ chối gia nhập NATO và bắt đầu phát triển ngành công nghiệp quân sự của chính mình.[18][19] Phản ứng của Hoa Kỳ trong chiến tranh Triều Tiên đã khiến Stalin bắt đầu từ bỏ kế hoạch chiến tranh với Nam Tư.

Cải cách

Trong thập niên 1950, Nam Tư bắt đầu một số cải cách cơ bản, mang lại sự thay đổi trong ba phương diện chính: nhanh chóng tự do hóaphân tán quyền lực của hệ thống chính trị quốc gia, thành lập một hệ thống kinh tế mới, độc nhất, và một chính sách ngoại giao không liên kết. Nam Tư đã từ chối tham gia Khối Warszawa và thay vào đó là một lập trường trung lập trong Chiến tranh Lạnh và trở thành một thành viên sáng lập của Phong trào không liên kết cùng với các nước như Ấn Độ, Ai CậpIndonesia, và một trong những tác động của nó là Nam Tư thúc đẩy một chính sách không đối đầu với Mỹ.[20]

Sau khi ly khai khỏi tầm ảnh hưởng của Liên Xô, Nam Tư đã tự mình lập ra một biến thể của chủ nghĩa xã hội, đôi khi được gọi chính thức là "chủ nghĩa Tito". Hoạt động kinh doanh thị trường tự do được cho phép diễn ra bên trong đất nước, nhà nước xây dựng một hệ thống chủ nghĩa xã hội thị trường. Các cải cách kinh tế bắt đầu vào ngày 26 tháng 6 năm 1950 khi đưa vào thể chế người lao động tự quản lý. Kiểm soát kinh tế đã được giao cho các nước cộng hòa hợp thành, các cơ quan chính phủ ở Beograd trở thành các hội đồng phối hợp hợp tác. Với hệ thống mới, các hội đồng công nhận kiểm soát việc sản xuất và phần lớn lợi nhuận, nó sẽ được phân phối trở lại cho bản thân các công nhân (thay vì nhà nước hoặc chủ sở hữu/cổ đông). Các chương trình phát triển công nghiệp và cơ sở hạ tầng cũng được thực hiện, và đất nước cuối cùng đã phát triển một lĩnh vực công nghiệp vững mạnh.[4][9]

Điều này cùng với các cải cách kinh tế quan trọng khác trong thời gian đó, cộng thêm viện trợ của phương Tây, đã làm hồi sinh Nam Tư và khiến kinh tế Nam Tư bùng nổ. Số việc làm tăng gấp đối từ 1950 đến 1964, và tỷ lệ thất nghiệm giảm xuống còn 6% vào năm 1961. Mặc dù có thêm rất nhiều lao động công nghiệp mới, lương của họ vẫn tăng 6,2% mỗi năm, trong khi sản xuất công nghiệp tăng 12,7% mỗi năm.[4][9] Xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp, dẫn đầu là cơ giới kiến thiết, các loại máy chuyên chở (đặc biệt là ngành công nghiệp đóng tàu), cùng công nghệ và thiết bị quốc phòng, tăng đáng kể với mức tăng hàng năm là 11%. Tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) cho đến đầu thập niên 1980 đạt trung bình 6,1%. Tỉ lệ biết chữ tăng lên đáng kể và đạt 91%, chăm sóc y tế là miễn phí ở tất cả các cấp, và tuổi thọ trung bình là 72.[4][9][21]

Cải cách kinh tế có quan hệ chặt chẽ với tự do hóa chính trị. Bộ máy quan liêu đồ sộ của nhà nước và đảng đã nhanh chóng bị tinh giản trong một quá trình được mô tả là "đẽo nhà nước" của Boris Kidrič, Chủ tịch Hội đồng Kinh tế Nam Tư (bộ trưởng kinh tế). Đại hội thứ sáu của Đảng Cộng sản Nam Tư, được tổ chức vào ngày 2 tháng 11 năm 1952 tại Zagreb, được tiến hành theo tinh thần của chủ nghĩa tự do xã hội, và hướng đi mới đã dẫn đến sự ra đời của "Luật cơ bản" năm 1953, trong đó nhất mạnh quyền tự do của "các đoàn thể tự do và người dân lao động" và "tự do cá nhân và quyền con người". Đảng Cộng sản Nam Tư, vốn bao gồm 6 đảng cộng sản tại các nước cộng hòa thành viên, lúc này đã đổi tên thành Liên minh những người cộng sản Nam Tư, bao gồm sáu liên minh những người cộng sản thành viên tại các nước cộng hòa liên bang. Phe bất đồng chính kiến trong đảng do Milovan Đilas lãnh đạo, ủng hộ thủ tiêu gần như toàn bộ bộ máy nhà nước, thời điểm này đã bị Tito can thiệp để đàn áp.[4][9]

Vào đầu thập niên 1960, các vấn đề như xây dựng nhà máy mang tính "chính trị" song không hợp lý về mặt kinh tế và lạm phát đã khiến một nhóm trong giới lãnh đạo cộng sản chủ trương thực hiện tản quyền lớn hơn.[22] Những người tự do này bị một nhóm tập trung quanh Aleksandar Ranković phản đối.[23] Năm 1966, những người tự do (quan trọng nhất là Edvard Kardelj, Vladimir Bakarić của Croatia và Petar Stambolić của Serbia) đã giành được sự ủng hộ của Tito. Tại một hội nghị của đảng ở Brijuni, Ranković đã phải đối mặt với một hồ sơ được chuẩn bị đầy đủ với những lời buộc tội và tố cáo từ Tito rằng ông đã hình thành một bè nhóm với ý định đoạt lấy quyền lực. Ranković bị buộc phải từ chức và một số người ủng hộ ông đã bị trục xuất khỏi đảng.[24]

Phát triển kinh tế và tự do hóa đã không bị cản trở trong suốt các thập niên 1950 và 1960, chúng tiếp tục phát triển với tốc độ nhanh chóng.[4][9] Việc đưa vào các cải cách hơn nữa đã mở đầu cho một biến thể của chủ nghĩa xã hội thị trường, kéo theo chính sách biên giới mở. Với đầu tư lớn của liên bang, du lịch tại Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Croatia đã được phục hồi, mở rộng, và chuyển thành một nguồn thu nhập chính. Với các biện pháp thành công này, kinh tế Nam Tư đã đạt được tính tự túc tương đối và có giao dịch rộng rãi với cả phương Tây và phương Đông. Vào đầu thập niên 1960, các nhà quan sát nước ngoài lưu ý rằng đất nước này "đang bùng nổ", và rằng công dân Nam Tư được hưởng quyền tự do lớn hơn nhiều so với người dân Liên Xô và các nước thuộc khối phía đông.[25]

Hội nghị thượng đỉnh Hoa Kỳ-Nam Tư, 1978

Năm 1971, ban lãnh đạo của Liên minh những người cộng sản Nam Tư, đặc biệt là Miko TripaloSavka Dabčević-Kučar, đã liên minh với các nhóm không đảng phái dân tộc chủ nghĩa, bắt đâù một phong trào nhằm tăng quyền hạn của các nước cộng hòa liên bang thành viên. Phòng trào này được gọi là Phòng trào Quần chúng (MASPOK) và đã lãnh đạo Mùa xuân Croatia.[26] Nước cộng hòa quê hương của Tito là Croatia, ông đã đáp lại bằng một cách tiếp cận kép. Nhà cầm quyền Nam Tư đã bắt giữ một số lượng lớn những người biểu tình Croatia, buộc tội họ khơi gợi nên chủ nghĩa dân tộc, trong khi đó Tito bắt đầu một chương trình nghị sự để đề xướng một số cải cách nhằm ngăn chặn một cuộc khủng hoảng tương tự có thể lại xảy ra.[27] Lúc này, những người ủng hộ Ustaše ở bên ngoài Nam Tư đã cố gắng thông qua các hành động khủng bố và du kích để hình thành nên một phong trào ly khai,[28] song họ đã không thành công, thậm chí đôi khi còn ở vào tình trạng thù địch với những đồng bào người Nam Tư Croatia theo Công giáo.[29] Từ năm 1971 trở đi, các nước cộng hòa kiểm soát các kế hoạch kinh tế của họ. Điều này đã dẫn đến một làn sóng đầu tư, đi kèm với số nợ tăng lên và xu hướng nhập siêu ngày càng lớn.[30]

Năm 1974, một hiến pháp liên bang mới đã được phê chuẩn, theo đó sẽ trao nhiều quyền tự chủ hơn cho các nước cộng hòa, do đó hoàn thành cơ bản mục tiêu chính của phong trào Mùa xuân Croatia năm 1971. Vấn đề gây tranh cãi nhất trong hiến pháp liên bang mới là phân chia nội bộ Serbia, với việc quyết định trao vị thế tương tự cho hai tỉnh tự trị của nước cộng hòa này, đó là Kosovo-một khu vực có phần lớn dân cư là người Albania, và Vojvodina- một khu vực có một số lượng lớn các dân tộc thiểu số bên cạnh người Serb chiếm đa số, như người Hungaria. Những cải cách này đã khiến các nước cộng hòa hài lòng, đặc biệt là Croatia cũng như những người Albania tại Kosovo và những người thiểu số ở Vojvodina. Song hiến pháp năm 1974 đã làm khiến các quan chức cộng sản người Serb thêm bực tức, họ không tin tưởng vào động cơ của những người ủng hộ cải cách. Nhiều người Serb xem các cải cách này là sự nhượng bộ đối với những người dân tộc chủ nghĩa Croatia và gốc Albania, trong khi lại không thành lập các tỉnh tự trị tương tự để đại diện cho một số lượng lớn người Serb tại Croatia hay Bosna và Hercegovina và những người dân tộc chủ nghĩa Serbia cảm thấy thất vọng trước sự ủng hộ của Tito trong việc công nhận người Montenegrongười Macedonia là các dân tộc riêng biệt, những người dân tộc chủ nghĩa Serbia tuyên bố rằng không có sự khác biệt về mặt sắc tộc hay văn hóa giữa hai nhóm này với người Serb.

Thời kỳ hậu Tito

Ngày 4 tháng 5 năm 1980, Tito qua đời và cái chết của ông được công bố trên hệ thống truyền thông nhà nước khắp Nam Tư. Mặc dù biết rằng trong một thời gian bệnh tình của Tito ngày càng nặng, song cái chết của ông vẫn khiến đất nước sửng sốt. Điều này là bởi Tito được nhìn nhận là một anh hùng dân tộc trong Chiến tranh thế giới thứ hai và đã là nhân vật nổi bật cũng như là bản sắc của đất nước trong nhiều năm. Sự ra di của ông đánh dấu một thay đổi đáng kể, và người ta tường thuật rằng đã có nhiều người Nam Tư công khai than khóc việc ông qua đời. Tại sân vận động bóng đá Split, nơi hai đội Serbia và Croatia đang thi đấu với nhau trong một trận đấu, cả hai đã dừng lại để nghe tin về cái chết của Tito và đẫm lệ hát bài hát ca tụng "Đồng chí Tito Chúng tôi thề với Người, từ đường đi của Người chúng tôi sẽ không trệch hướng"[31]

Phần mộ của Chủ tịch Josip Broz Tito.

Vào thời điểm Tito qua đời, chính quyền liên bang do Veselin Đuranović đứng đầu (ông đã giữ chức vụ này từ năm 1977). Ông đã xung đột với các nhà lãnh đạo của các nước cộng hòa khi tranh luận rằng Nam Tư cần thi hành tiết kiệm do nợ nước ngoài ngày càng tăng. Đuranović cho rằng phá giá là cần thiết, tức điều mà Tito đã từ chối ủng hộ vì lý do uy tín quốc gia.[32]

Nam Tư hậu Tito phải đối mặt với khoản nợ tài chính đáng kể trong những năm 1980, song nhờ những mối quan hệ tốt đẹp giữa nước này với Hoa Kỳ nên đã dẫn đến việc thành lập một nhóm các tổ chức do Hoa Kỳ lãnh đạo được gọi là "những người bạn của Nam Tư" giải quyết các khoản nợ lớn cho Nam Tư vào năm 1983 và 1984, song các bài toán kinh tế vẫn sẽ tiếp tục tồn tại cho đến khi giải thể đất nước trong thập niên 1990.[33]

Nam Tư là nước chủ nhà của Thế vận hội Mùa đông 1984 tại Sarajevo. Đối với Nam Tư, thế vận hội đã tiếp tục chứng minh tầm nhìn Tình huynh đệ và thống nhất của Tito khi các dân tộc Nam Tục vẫn tiếp tục thi đấu thống nhất trong một đội tuyển, và Nam Tư trở thành quốc gia cộng sản thứ hai tổ chức thế vận hội (sau Thế vận hội Mùa hè 1980). Tuy nhiên, thế vận hội tổ chức tại Nam Tư đã không bị một số nước phương Tây tẩy chay như Thế vận hội tại Moskva.

Vào cuối thập niên 1980, chính phủ Nam Tư bắt đầu tiến hành một quá trình rời xa chủ nghĩa cộng sản khi cố gắng chuyển đổi thành một nền kinh tế thị trường dưới quyền lãnh đạo của Thủ tướng Ante Marković, người chủ trương áp dụng "liệu pháp sốc" để tư hữu hóa các khu vực của kinh tế Nam Tư. Marković được nhìn nhận là một chính trị gia có khả năng nhất để chuyển đổi đất nước thành một liên bang dân chủ tự do hóa, song sau đó ông đã mất đi tín nhiệm mà chủ yếu là do thất nghiệp gia tăng.

Tan rã và chiến tranh

Ý thức hệ và đặc biệt là tinh thần dân tộc chủ nghĩa được nhiều người xem là các nguyên nhân chính dẫn đến sự tan rã của Nam Tư.[34] Từ thập niên 1970, chế độ cộng sản Nam Tư đã bị phân tách thành một phe dân tộc chủ nghĩa tự do-tản quyền do Croatia và Slovenia lãnh đạo, phe này ủng hộ một liên bang phi tập trung hóa để trao quyền tự chủ lớn hơn cho hai nước cộng hòa này; còn phe dân tộc chủ nghĩa bảo thủ-tập trung hóa do Serbia lãnh đạo và ủng hộ một liên bang tập trung để đảm bảo lợi ích của Serbia và của người Serb trên khắp Nam Tư – do họ là dân tộc lớn nhất trong toàn quốc.[35] Từ năm 1967 đến 1972 tại Croatia và kéo theo các cuộc biểu tình ở Kosovo từ 1968 đến 1981, các học thuyết và hành động dân tộc chủ nghĩa đã gây ra căng thẳng sắc tộc, khiến đất nước mất ổn định.[34] Sự đàn áp của chế độ cộng sản đối với những người dân tộc chủ nghĩa được cho là đã khiến họ xác định rằng mình phải thay thế chính chủ nghĩa cộng sản và khiến nó [chủ nghĩa dân tộc] trở thành một phong trào bí mật phát triển mạnh mẽ.[36] Vào cuối thập niên 1980, giới cầm quyền tại Beograd đã phải đối mặt với một lực lượng phản đối mạnh mẽ từ các cuộc biểu tình lớn của người Serb tại Kosovo và người Montenegro cũng như yêu cầu cải cách chính trị của giới tri thức Serbia và Slovenia.[36]

Trong kinh tế, từ cuối thập niên 1970, nguồn lực kinh tế giữa các vùng pháp triển và kém phát triển của Nam Tư ngày càng mở rộng khoảng cách và nó khiến tính thống nhất của liên bang xấu đi nghiêm trọng.[37] Các nước cộng hòa phát triển nhất là Croatia và Slovenia đã bác bỏ các nỗ lực nhằm hạn chế quyền tự chủ của họ vốn được quy định trong Hiến pháp 1974.[37] Quan điểm chung tại Slovenia vào năm 1987 là nước cộng hòa của họ sẽ có được cơ hội kinh tế tốt hơn nếu độc lập khỏi Nam Tư.[37] Ngoài ra còn có những nơi không nhận được lợi ích kinh tế; ví dụ, tỉnh tự trị Kosovo là một nơi kém phát triển, và GDP bình quân đã giảm từ mức 47% bình quân của Nam Tư ngay sau chiến tranh xuống 27% vào thập niên 1980.[38] Tuy nhiên, những vấn đề kinh tế đã không được chứng minh là yếu tố mang tính quyết định duy nhất trong sự tan rã của Nam Tư, do Nam Tư trong thời kỳ này là nhà nước cộng sản thịnh vượng nhất ở Đông Âu và quốc gia này trên thực tế đã tan rã về mặt kinh tế trong giai đoạn phục hồi sau khi thực hiện các cải cách kinh tế của chính phủ Ante Marković.[39] Hơn nữa, trong sự tan rã của Nam Tư, các nhà lãnh đạo của Croatia, Serbia, Slovenia đều từ chối một đề nghị không chính thức của Cộng đồng châu Âu với nội dung cung cấp hỗ trợ kinh tế đáng kể cho họ để đổi lấy một thỏa hiệp chính trị.[39] Tuy nhiên, vấn đề bất bình đẳng kinh tế giữa các nước cộng hòa, tỉnh tự trị, và các dân tộc tại Nam Tư đã dẫn đến căng thẳng với những lời tuyên bố bị thiệt thòi và những cáo buộc về việc nhóm dân tộc khác được hưởng quyền ưu đãi.[39]

Các cuộc biểu tình chính trị tại Serbia và Slovenia mà về sau phát triển thành các cuộc xung đột sắc tộc đã bắt đầu từ cuối thập niên 1980, các cuộc biểu tình này chống lại sự bất công và quan liêu của giới lãnh đạo chính trị.[40] Các thành viên trong giới lãnh đạo chính trị đã điều khiển để chuyển hướng các cuộc biểu tình này sang chống lại "những người khác".[39] Những người biểu tình Serbia lo lắng về sự tan rã của đất nước và cáo buộc rằng "những người khác" (người Croatia, người Slovenia, và các tổ chức quốc tế) phải chịu trách nhiệm về điều này.[40] Giới tinh hoa tri thức Slovenia thì biện luận rằng "những người khác" (người Serb) phải chịu trách nhiệm cho mưu đồ bành trướng Đại Serbia, cho việc khai thác kinh tế của Slovenia, và cho việc đàn áp bản sắc dân tộc Slovenia.[40] Các hành động nhằm chuyển hướng các cuộc biểu tình quần chúng này đã cho phép các chế độ tại Serbia và Slovenia tồn tại với cái giá là phá vỡ sự thống nhất của Nam Tư.[40] Các nước cộng hòa khác như Bosnia & Herzegovina và Croatia đã từ chối tuân theo các chiến thuật của Serbia và Slovenia, dẫn đến kết quả là các chế độ cộng sản này bị lực lượng chính trị dân tộc chủ nghĩa đánh bại.[40]

Theo quan điểm chính trị quốc tế, việc chiến tranh Lạnh kết thúc đã góp phần vào sự tan rã của Nam Tư vì đất nước này mất đi tầm quan trọng trong chiến lược chính trị quốc tế với vị thế là một trung gian giữa khối phía đông và phía tây.[41] Như một hệ quả, Nam Tư đã mất đi sự hỗ trợ về mặt kinh tế và chính trị từ phương Tây, và sức ép từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) ngày càng tăng trong việc cải cách thể chế khiến giới tinh hoa theo chủ nghĩa cải lương ở Nam Tư không thể đối phó với rối loạn xã hội ngày càng tăng lên.[41] Sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Âu và Liên Xô đã làm suy yếu cơ sở ý thức hệ của đất nước và khuyến khích các lực lượng chống cộng và dân tộc chủ nghĩa tại các nước cộng hòa Croatia và Slovenia tăng cường các đòi hỏi của họ.[41]

Từ khi Hiến pháp 1974 giảm bớt quyền hạn của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Serbia đối với hai tỉnh tự trị KosovoVojvodina, tình cảm dân tộc chủ nghĩa tại Serbia ngày càng tăng lên, chủ yếu tập trung vào Kosovo. Tại Kosovo (chủ yếu do những người cộng sản Albania quản lý), cộng đồng Serbia thiểu số ngày càng phàn nàn về về sự ngược đãi và lạm dụng của người Albania đa số. Tại Serbia, đã sẵn bị kích động bởi việc bị giảm bớt quyền hạn, điều này đã làm gia tăng tình cảm chống Albania, sự thù hằn sắc tộc lại trở lại Nam Tư. Năm 1986, Viện Khoa học và Nghệ thuật Serbia (SANU) đã công bố một tài liệu gây tranh cãi được gọi là Giác thư SANU. Trong đó, viện đã ủng hộ những bất bình của những người dân tộc chủ nghĩa Serbia. Liên minh những người cộng sản Nam Tư (SKJ) vào thời điểm đó đã thống nhất lên án giác thư, và tiếp tục chính sách chống dân tộc chủ nghĩa của họ.[3]

Tòa nhà quốc hội của Bosna và Hercegovina bốc cháy trong bối cảnh diễn ra các cuộc chiến tranh Nam Tư.

Năm 1987, một quan chức của Liên minh những người cộng sản Serbia (SKS) (nhánh Serbia của SKJ), Slobodan Milošević, đã được cử đến Kosovo để dập tắt các cuộc biểu tình của những người gốc Serbia tại đó. Đến thời điểm này, tất cả các nhánh của Liên minh những người cộng sản Nam Tư, bao gồm Milošević, đều nhất trí lên án những người dân tộc chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong hành động biểu tình này, Milošević đã không tuân theo chính sách của đảng: ông đã ủng hộ những tuyên bố của đám đông biểu tình, ngay lập tức đóng vai "người che chở của người Serb". Hình ảnh này đã được nâng lên hơn nữa khi ông tăng cường kiểm soát cá nhân đối với truyền thông Serbia. Với sự nổi danh này, Milošević đã điều khiển tình hình để giành quyền kiểm soát đối với Liên minh những người cộng sản Serbia từ đồng minh chính trị một thời của ông là Ivan Stambolić, Slobodan Milošević trên thực tế trở thành chính trị gia quyền lực nhất tại Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Serbia.[3]

Bảo đảm được vị trí của mình tại Serbia, Milošević tiến hành nắm quyển kiểm soát các chính quyền của Vojvodina, Kosovo, và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Montenegro láng giềng trong điều được truyền thông Serbia gọi là "Cách mạng chống quan liêu". Hai tỉnh tự trị XHCN của Serbia đều có một phiếu bầu Chủ tịch Nam Tư theo hiến pháp năm 1974, cùng với Montenegro và bản thân Serbia, Milošević nay đã có thể kiểm soát trực tiếp 4 trong số 8 lá phiếu trong cuộc bầu cử người đứng đầu nhà nước. Tình hình này khiến các chính phủ Croatia và Slovenia càng bực tức, cùng với họ là những người Albania tại Kosovo, tất cả họ đều nhanh chóng chuyển sang xung đột với Milošević (Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Bosna và Hercegovina cùng Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Macedonia vẫn tương đối trung lập).[3]

Tháp nước Vukovar trong cuộc bao vây Vukovar. Tháp là một biểu tượng cho sự kháng cự chống quân Serbia của thị trấn.

Trong Đại hội lần thứ 14 của Liên minh những người cộng sản Nam Tư (tháng 1 năm 1990), các đoàn đại biểu của Liên minh những người cộng sản Croatia do Ivica Račan lãnh đạo, và Liên minh những người cộng sản Slovenia đều bỏ ra khỏi đại hội nhằm chống lại thòng lọng của Milošević tại quốc hội. Vì thế, Liên minh những người cộng sản Nam Tư đã giải thể, dẫn đến việc hình thành một hệ thống đa đảng tại các nước cộng hòa. Các Liên minh những người cộng sản (hầu hết đổi sang tên mới) đã thất cử tại phần lớn các nước cộng hòa. Tại Croatia, Liên minh Dân chủ Croatia theo chủ nghĩa dân tộc đã giành chiến thắng với hứa hẹn "bảo vệ Croatia trước Milošević", và nhanh chóng hạ vị thế của thiểu số lớn Serbia tại nước cộng hòa từ "dân tộc hợp thành" xuống "dân tộc thiểu số" vào ngày 22 tháng 12 năm 1990, khiến cho người Serb tại Croatia lo lắng.[3]

Các chính quyền mới theo tư tưởng dân tộc chủ nghĩa của Croatia và Slovenia đã tuyên bố công khai ý định ly khai khỏi Nam Tư. Sau các cuộc trưng cầu dân ý bị người Serb thiểu số tẩy chay, hai nước tuyên bố ly khai vào ngày 25 tháng 6 năm 1991, song các nỗ lực quốc tế đã trì hoãn điều này trong vòng ba tháng (Thỏa thuận Brijuni). Ngay lập tức sau khi Slovenia tuyên bố ly khai, Chủ tịch Nam Tư đã ra lệnh cho Quân đội Nhân dân Nam Tư (JNA) nắm quyền kiểm soát các cửa khẩu quốc tế tại Slovenia. Do đó đã bắt đầu một nỗ lực không thật hăng hái của Quân đội Nhân dân Nam Tư nhằm ngăn chặn Slovenia ly khai, được gọi là Chiến tranh Mười Ngày. Nản lòng trước quân Phòng thủ Lãnh thổ Slovenia (TO), quân đội liên bang đã bị từ chối cho phép chiếm hoàn toàn nước cộng hòa, và đã sớm rút lui.[3]

Tại Croatia, Chiến tranh Độc lập Croatia cũng sớm bắt đầu, phiến quân người Croatia gốc Serbia (được quân đội liên bang hỗ trợ) đã củng cố những nơi họ nắm giữ trên lãnh thổ Croatia, và tuyên bố rằng các thực thể của họ sẽ không ly khai khỏi Nam Tư nếu Croatia độc lập (sau 3 tháng theo Thỏa thuận Brijuni). Tháng 10 năm 1991, Croatia và Slovenia dứt khoát tuyên bố độc lập, dẫn đến chiến tranh quy mô toàn diện tại Croatia. Phiến quân người Serb và các đơn vị Quân đội Nhân dân Nam Tư do người Serb kiểm soát đã thành công trong việc chiếm các vùng rộng lớn của Croatia. Một hiệp định đình chiến tạm thời được tiến hành vào tháng 1 năm 1992, với sự chú ý nhanh chóng chuyển sang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Bosna và Hercegovina. Tháng 9 năm 1991, Macedonia cũng tuyên bố độc lập. Năm trăm binh sĩ Hoa Kỳ sau đó đã được triển khai dưới ngọn cờ Liên Hiệp Quốc nhằm giám sát biên giới phía bắc của Macedonia.[3]

Các thể chế liên bang của Nam Tư vào lúc này đều dừng hoạt động. Nhà nước vẫn chính thức tồn tại, bao gồm Serbia, Montenegro cùng Bosna và Hercegovina và hoàn toàn do Chủ tịch người Serb Slobodan Milošević kiểm soát. Sau sự ly khai của Croatia, người Bosnia gốc Croatia và người Bosnia Hồi giáo không còn muốn ở lại trong một liên bang mà người Serb hoàn toàn thống trị. Tuy nhiên, người Bosnia gốc Serbia thì lại phản đối mạnh mẽ việc tách khỏi Serbia. Điều này đã dẫn đến việc tẩy chay các cuộc trưng cầu dân ý cả của chính quyền Bosnia do người Hồi giáo thống trị và thực thể của người Serb mới được thành lập- Cộng hòa của người Serb tại Bosna và Hercegovina (sớm đổi tên thành Cộng hòa Srpska). Ngay sau cuộc trưng cầu dân ý của mình, chính phủ Bosnia tuyên bố ly khai khỏi Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư, khiến nổ ra Chiến tranh Bosnia giữa các dân tộc thù địch lẫn nhau.[3]

Sau khi Bosna và Hercegovina ly khai, Nam Tư đã chính thức tan rã khi chỉ còn lại hai thành viên, Serbia và Montenegro. Hai nhà nước này sau đó hình thành nên Cộng hòa Liên bang Nam Tư, và tuyên bố là nhà nước kế thừa của Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư. Tuy nhiên, động thái này không được cộng đồng quốc tế nhìn nhận là hợp pháp, và Nam Tư được xem là đã hoàn toàn tan rã thành năm nhà nước kế thừa: Bosna và Hercegovina, Croatia, Macedonia, Slovenia và Cộng hòa Liên bang Nam Tư (sau đó đổi tên thành "Serbia và Montenegro").[3]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Cộng_hòa_Liên_bang_Xã_hội_chủ_nghĩa_Nam_Tư http://users.skynet.be/Emmanuel.Gustin/faq/shotdow... http://www.country-data.com/cgi-bin/query/r-14786.... http://www.economist.com/node/21528599 http://www.google.com/books?hl=ro&lr=&id=9isLX6inK... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,7... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,8... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,8... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,8... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,9... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,9...